HOẠT CHẤT PROPICONAZOLE LÀ GÌ?
Tên chung: Propiconazole
Tên hóa học: 1- {(2 – (2,4 – dichlorophenyl) – 4 – propyl – 1,3 – dioxolan – 2 – yl) methyl} – 1H – 1,2,4 – triazole
Nhóm hóa học: Triazole
Tính chất: Thuốc kỹ thuật ở dạng lỏng, màu vàng, điểm sôi 95oC, áp suất hơi 3×10-6mmHg (20oC). Tan ít trong nước (11mg/l), tan nhiều trong dung môi hữu cơ như aceton, metylic. Không ăn mòn kim loại.
Độc tính: nhóm độc II. LD50 qua miệng 1517mg/kg. LD50 qua da 4000mg/kg. ít độc đối với môi trường, con người, gia súc, cá và ong. Dư lượng tối đa với ngũ cốc, cà phê 0,1mg/kg.
Thời gian cách ly: 7 ngày.
Cơ chế tác động:
Propiconazole ức chế hoạt tính của Cytochrome là hệ Enzyme cần thiết cho quá trình khử Methyl các Alpha – Methyl – Sterol (thí dụ Lanosterol) thành Ergosterol là Sterol chính của màng tế bào nấm. Lượng Ergosterol bị giảm sẽ làm thay đổi tính thấm và chức năng của màng tế bào.
Propiconazole kìm hãm quá trình khử metyl của sterol, kìm hãm sinh tổng hợp ergosterol ở màng tế bào làm ngừng sự phát triểm của sợi nấm. Thuốc có hiệu lực bảo vệ dài, phòng trừ được nhiều bệnh thuộc các lớp nấm đảm, nấm túi, nấm bất toàn và một số bệnh trên hạt giống.
Propiconazole (Công thức hóa học C15H17CL2N3O2) 95%: 158g là một triazol, có năng lực diệt nấm, kháng khuẩn và virus trên lá toàn thân theo cơ chế cản trở sự tổng hợp ergosterol. Có thể sử dung hoạt chất này chữa nhiều loại bệnh trên nhiều loại cây trồng như lúa, ngô, rau màu, bông, cây công nghiệp…Mặt khác, nó giúp cây trồng tăng sức đề kháng sâu bệnh, giúp cây phát triển nhanh.
Propiconazole là hoạt chất trừ bệnh lưu dẫn thuộc nhóm Triazole (trong nhóm này có các hoạt chất khác như: difenoconazole, fenbuconazole, myclobutanil, propiconazole, tebuconazole, tetraconazole, triadimefon, and triticonazole). Propiconazole có thể phun phòng và trừ nhiều loại bệnh trên nhiều cây trồng khác nhau như lúa, ngô, rau các loại, lạc, củ cải đường, cao su, cây ăn quả,…
Nó còn có thể tiêm thẳng vào cây để trừ một số bệnh trên cây thân gỗ như: bệnh ghẻ cây táo, rỉ sắt, héo lá sồi, mốc xám, loét , đốm lá,….
Ảnh 1: Propiconazole được “tiêm” vào cây để trừ bệnh héo lá sồi.
Ảnh 2: Cận cảnh “lỗ” để đưa thuốc vào trong cây.
Đường kính “lỗ” to hay nhỏ phụ thuộc vào lượng nước thuốc sử dụng.
Các loại thuốc để sử dụng theo phương pháp này có trên thị trường như Alamo®, Banner Maxx, Quali-Propiconazole (Propiconazole 14.3),….
Propiconazole cũng được đăng ký sử dụng như một hoạt chất kháng khuẩn.
Propiconazole có hiệu lực với các loại nấm họ Ascomycetes (bao gồm: Erysiphe graninis, Mycosphaerella spp. Sclerotinia spp, Psuedocercosporella herpotrichoides orTapesia yallundae as it is now known, Rhynchosporium secali, Pyrenophora tere, Leptosphaeria nodorum, and Rhizoctonia spp), Basidiomycetes (Puccinia spp), nấm bất toàn (Septoria spp, Cercospora spp and Monilinia spp)
Propiconazole can thiệp vào quá trình sinh tổng hợp Ergosterol (một phân tử hữu cơ quyết định hình thành màng sợi nấm). Điều này làm cho sợi nấm không sinh trưởng được.
Propiconazole thấm vào lá, thân cây sau một giờ. Nó có thể được vận chuyển lên trên bởi mạch dẫn của cây. Với đặc tính lưu dẫn của mình, Propiconazole nhanh chóng được phân bố đi khắp các bộ phận của cây trước khi bị rửa trôi bởi nước mưa, gió. Hoạt chất cũng có thể được vận chuyển ngược xuống dưới nhưng rất hạn chế.
Nhờ hệ vi sinh vật trên lớp đất mặt phân giải mà Propiconazole được cây hấp thụ. Quá trình quang hóa cũng như sự bay hơi không phải là con đường chính cho sự phân giải. Quá trình phân giải này tạo ra những hợp chất trung gian, carbon dioxide và và một loại chất xác định khác. Không có những chứng cứ xác định rằng Propiconazole được tích tụ lại trong đất.
Propiconazole tiêu hủy hoàn toàn trong nước và không tích tụ trong bùn
Hàng loạt những nghiên cứu về độ độc của Propiconazole đã chứng minh rằng nó không độc với chim, động vật máu nóng, côn trùng có ích và cũng không tích tụ trong cơ thể chúng.
Propiconazole không gây ngộ độc cho những cây trồng khác liền kề với những cây trồng cần xử lý thuốc có chứa Propiconazole. Trên những cơ sở về đặc tính của Propiconazole có thể kết luận rằng nó không nguy hiểm cho môi trường trên cạn.
Mức dư lượng tối đa (MRL) theo Codex (mg/kg):
Đậu tương: 0.07; Ngô: 0.05; Cà phê hạt: 0.02; Chuối: 0.1; Củ cải đường: 0.02.